Lưu ý khi dùng thuốc chữa chốc đầu

Chốc đầu là một bệnh lý rất hay gặp tại trẻ nhỏ dưới 5 tuổi nhất là ở các trẻ vệ sinh kém, thiếu sự quan tâm chăm sóc của người nghiêm trọng. Thuốc điều trị bệnh này tuy không phức tạp tuy nhiên phải hiểu phương pháp sử dụng... Chốc đầu là một nhóm bệnh khá hay gặp ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi đặc biệt tại các trẻ vệ sinh thấp, thiếu sự quan tâm chăm sóc của người to lớn. Thuốc chữa bệnh lý này tuy không phức tạp thế nhưng phải hiểu cách dùng...
Chốc đầu là căn bệnh nhiễm khuẩn ngoài da vì liên cầu khuẩn tạo nên, hay gặp tại mùa hè và được biểu hiện bằng những mụn nước trên đầu, nước ban đầu trong, sau có khả năng có mủ. Mụn nước vỡ thì để lộ lớp da tổn thương chợt đỏ ở phía dưới. Dịch chảy ra sẽ dính tóc thành mảng bết lại.
Các nốt vết thương đóng vảy và tạo thành vảy chốc. Chốc đầu không gây ra hiểm nguy tại chỉ gây vết thương tại bề mặt. tuy nhiên khi bị nặng thì nguy cơ bội nhiễm tương đối cao. Vi khuẩn có khả năng xâm nhập vào máu và gây ra tác động tại khá nhiều bộ phận khác như tim, thận, khớp...

Có thể bạn quan tâm:

Liên cầu khuẩn tạo nên bệnh chốc đầu.
Những thuốc trị
Dung dịch sát trùng:
Thông dụng nhất là nước muối 0,9% và dung dịch berberin có thể kìm hãm hay tiêu diệt vi khuẩn tại tổn thương và xung quanh vết thương.
Nước muối sử dụng để rửa vết thương, thế nhưng nó có nhược điểm là độ mạnh sẽ diệt khuẩn không rất cao. Trong các nếu nặng thì nên sử dụng dung dịch kháng sinh nhẹ berberin.
Dung dịch berberin thường sử dụng dung dịch với nồng độ 0,1%. Ngoài tác dụng với vi khuẩn đường ruột, berberin còn có tác dụng kìm và tiêu diệt vi khuẩn ngoài da là tụ cầu khuẩn và liên cầu khuẩn. Khi rửa, chúng ta chỉ việc pha với nước hoặc thấm vào bông và lau vào nốt tổn thương là được.
Thuốc màu:
Số đông thuốc màu được sử dụng tuy nhiên có 2 loại phổ thông đặc biệt dung dịch xanh methylen và dung dịch chứa iốt.
Dung dịch xanh methylen có màu xanh đặc trưng. Thuốc có thể gắn kết với những tiểu nguy cơ trong vi khuẩn và làm hư hỏng chức năng của những tiểu khả năng này, làm phá vỡ các phản ứng ôxy hoá trong chuyển hoá dinh dưỡng của vi khuẩn làm vi khuẩn chết. Xanh methylen có bán rộng rãi ở những nhà thuốc. Thuốc được bào chế trong những lọ nhỏ tiện dụng. Chỉ cần lấy tăm bông, thấm ướt xanh metylen và bôi lên nốt tổn thương.
Dung dịch có chứa iốt như cồn iốt, betadin, povidine. Dung dịch có chứa iốt có thể sát khuẩn bởi iốt phản ứng nặng theo phản ứng trao đổi iôn với các enzym ôxy hoá khử tại màng tế bào vi khuẩn làm những enzym này mất tính năng. Chuỗi hô hấp tế bào bị phá vỡ và vi khuẩn sẽ không nguy cơ thực hiện chuyển hoá. hơn thế nữa, iốt còn có thể làm biến tính những phân tử protein màng và xuyên màng, làm hư hỏng các protein này. Tính ổn định màng không được duy trì và vi khuẩn bị chết bởi mất màng bảo vệ.
Sử dụng dung dịch iốt khá đơn giản. Chỉ cần thấm vào tăm bông và chấm lên nốt vết thương. tốt nhất là dùng các dung dịch iốt đóng trong chai tại nồng độ iốt không quá rất cao, tránh gây ngộ độc. những dung dịch cồn iốt thường có nồng độ iốt cao, dễ gây ra loét thêm và dẫn đến quá tải nồng độ iốt cho cơ thể.
Thuốc bột và thuốc mỡ dùng ở chỗ
Thuốc bột và thuốc mỡ bôi phổ biến những kháng sinh sử dụng ở chỗ. Có 2 loại thông dụng là bột kháng sinh chlorocid và mỡ tetracyclin.
Bột kháng sinh chlorocid có thể kháng khuẩn mạnh sẽ, có tác dụng kìm hãm sự tiến triển của vi khuẩn và tiêu diệt vi khuẩn, đồng thời nó còn có chức năng hút dịch, tạo vẩy để che phủ tổn thương chống nhiễm khuẩn bên ngoài. Kháng sinh chlorocid khá nhạy cảm với các vi khuẩn ngoài da và vi khuẩn con đường ruột và tốt với các vết thương dạng loét ngoài da. Chỉ cần rắc lên vết thương.
Mỡ tetracyclin thường được bào chế dưới dạng týp nồng độ 3%. Đây là mỡ thường được dùng để tra mắt. Kháng sinh tetracyclin có khả năng kìm khuẩn vì nó gắn vào tiểu phân 30S của ribosom làm rối loạn quá trình sinh tổng hợp protein của vi khuẩn. Vi khuẩn bị kìm hãm sự phát triển dần dần bị tiêu diệt. Kháng sinh tetracyclin cũng là kháng sinh nhạy cảm với vi khuẩn ngoài da như tụ cầu khuẩn và liên cầu khuẩn. kỹ thuật dùng mỡ này đơn giản, chỉ cần bôi lên nốt tổn thương trước khi đi ngủ.
Liên cầu khuẩn gây căn bệnh chốc đầu.
Và những chú ý khi sử dụng
Việc điều trị tuy đơn giản nhưng chúng ta cần cho rằng áp dụng thuốc đúng phương pháp. Trước dứt điểm cần cắt ngắn tóc tại vùng xung quanh để tránh bết tóc. trường hợp dính vào nốt vết thương sẽ là một tác nhân tạo nên viêm và làm cho tổn thương khá lâu khỏi.
Với các nốt chưa vỡ, cần rửa sạch bằng dung dịch sát khuẩn. Nhẹ nhàng không để vỡ mụn. Sau đó lấy kim vô khuẩn (kim tiêm chưa sử dụng lần nào) khều nhẹ cho chảy nước. Động tác này làm vỡ mụn nước chủ động, không để dịch chảy lây truyền. Thấm khô dịch này bằng bông, sau đó rắc thuốc bột kháng sinh lên miệng nốt mụn để thấm dịch, diệt khuẩn và tạo vảy.
Với những nốt đã đóng vảy, phải rửa sạch sẽ hằng ngày bằng dung dịch sát trùng. Cọ nhẹ nhàng, vảy có thể tự bong ra nhưng tuyệt đối không được cố ý cạy vảy cho chảy máu. Sau đó lấy bông sạch thấm khô. Bước tiếp theo là bôi thuốc màu tại chỗ với những vết tổn thương chưa khô hẳn, còn rớm dịch. tình trạng như những vết vết thương đã khô hơn thì bôi thuốc mỡ. Lúc này thuốc mỡ vừa che vết thương, vừa giải phóng thuốc kéo dài rất tốt. Không sử dụng thuốc mỡ lúc dịch đang chảy.
Đối với các thuốc màu thì thấm vào tăm bông và bôi lên mụn vết thương. có thể bôi rộng ra quanh vài milimét để diệt khuẩn ở quanh. Thuốc bột thì chỉ cần rắc lên tổn thương còn thuốc mỡ thì bôi lên bề mặt và rộng ra quanh. Thuốc mỡ chỉ nên bôi buổi tối. nếu chữa và chăm sóc đúng, chỉ 5-7 ngày là khỏi. việc làm cuối cùng là giữ vệ sinh sạch sẽ và nuôi dưỡng đủ sẽ tránh được bệnh nặng, tránh được tái phát sau trị.

Nguồn:
Previous
Next Post »